Tháng 7/2014, thủ thành Tim Howard gây chấn động toàn thế giới chỉ trong một đêm sau hơn 10 năm là một trong những vận động viên tiêu biểu hàng đầu của nước Mỹ. Kỉ lục 15 pha cứu thua cho đội tuyển Mỹ trước người Bỉ ở World Cup đã làm sống dậy một quốc gia mà gần đấy mới khẳng định bản thân mình ở sân chơi bóng đá thế giới sau nhiều năm dài im hơi lặng tiếng.
Có 21 triệu khán giả truyền hình - lớn hơn số lượng người theo dõi các trận chung kết NBA và NHL - đã theo dõi màn trình diễn tuyệt hảo của Howard trước đội tuyển Bỉ. Anh đã xuất sắc cứu thua những cú dứt điểm của các tiền đạo xuất sắc nhất trong một đội hình toàn sao của Bỉ - một đội bóng có tới 12 người thi đi đấu tại Premier League - bằng bàn tay, cánh tay, bàn chân, cẳng chân, đầu gối và thậm chí là bộ râu rậm rạp của mình.
Bỗng nhiên Howard (khi đó còn khoác áo Everton), người có phần thầm lặng hơn so với một vài người khác tại Premier League kể từ khi đến Anh vào năm 2003, là ngôi sao của bộ ảnh chế trên internet về chính mình - “Những thứ Tim Howard có thể cứu” - mà trong đó gần như bao gồm mọi thứ từ tủ quần áo nổi tiếng của Janet Jackson đã gặp sự cố với Titanic. Thậm chí anh còn nhận được một bức thư cá nhân từ Tổng thống Barack Obama: “Tôi không biết anh sẽ sống sót trước những đám đông như thế nào khi trở về nhà. Anh sẽ phải cạo bộ rậu của mình đi để họ không biết anh là ai.”
Nhưng sự ẩn danh đó là thứ mà Howard ưa thích. Một cậu bé hiếu động từ New Jersey với hội chứng Tourette, anh bất chấp tất cả những điều cản trở để không chỉ trở thành một trong những thủ môn vĩ đại nhất nước Mỹ mà còn là vận động viên tài năng và nổi tiếng nhất tại quê hương. Niềm tin trọn vẹn và tình yêu với tất cả các môn thể thao đã giúp anh đối phó với một chứng rối loạn mà nó được biểu hiện khi nói chuyện và những khi cơ mặt bị giật, cách cư xử gượng ép và cực kì nhạy cảm với ánh sáng, tiếng ồn và sự va chạm.
Howard lớn lên trong điều kiện không dư giả gì. Anh và người anh trai Chris được bà mẹ đơn thân của mình nuôi nấng, họ sống trong một căn hộ nhỏ có một phòng ngủ. Tiền bạc không hề dư giả; mẹ anh làm việc ở một cửa hàng nội thất trên phố và hàng đêm đóng gói hàng cho một nhà máy cách đó một giờ đi lại. Với hai anh em anh, thể thao là lối thoát duy nhất trước guồng quay cuộc sống hàng ngày từ lúc ở trên lớp cho tới khi trở về nhà một mình với rất ít thức ăn trên bàn. Những cậu bé nhà Howard chơi hockey đường phố, bóng bầu dục (touch football), bóng chày, bóng rổ hay đi săn trong rừng,… bất cứ thứ gì có thể giúp họ thoát khỏi cuộc sống đơn điệu thường nhật.
Howard gặp khó khăn trong suốt quãng thời gian đi học. Chứng rối loạn khiến anh gặp khó có thể ngồi yên một chỗ, không thể tập trung trong một khoảng thời gian dài và muốn ở tất cả mọi nơi dù khi đó vẫn đang ngồi tại bàn. Anh luôn cảnh giác với môi trường xung quanh đồng thời bất kì âm thanh hay cảm giác nào cũng đều được khuếch đại lên. Anh bị khó ngủ, dễ bị giật mình trước những người xung quanh và trên hết là nỗi sợ độ cao.
Suốt thời ấu thơ, chỉ có mẹ là người duy nhất thấu hiểu những khiếm khuyết của anh. Bà biết rằng thể thao là thứ duy nhất có ý nghĩa quan trọng đối với cậu con trai của mình. Chính vì thế bà quyết định anh nên tập luyện và chơi cho một đội bóng địa phương ở một giải bóng đá có tính giải trí khi lên sáu tuổi sau khi đã từng tham gia thi đấu bóng chày và bóng rổ trước đó.
Đội bóng đầu tiên của Howard có tên là Rangers. Anh không thi đấu ở vị trí thủ môn và mặc dù gặp khó về khía cạnh kĩ thuật của môn bóng đá như là dứt điểm, chuyền và rê bóng nhưng chiều cao và thể hình tốt khi vẫn còn trẻ giúp anh trở thành một trong những cầu thủ trẻ nổi bật nhất trong khu vực; anh được biết đến với cái tên “người khổng lồ xanh vui vẻ”.
Những tháng ngày tuổi trẻ trên các sân bóng nhỏ, khô cằn và lộn xộn đã khiến Howard đắm đuối với bóng đá. Việc nhận thức được chiều cao của mình giúp anh cảm nhận được nhịp độ trận đấu sớm hơn hầu hết những đứa trẻ cùng tuổi - anh thích chơi bóng mà hiếm khi dừng lại - và không bao giờ có một khoảnh khắc nghỉ ngơi ngào ngoài khoảng thời gian ngắn nghỉ giữa hiệp. Howard liên tục tự hỏi người khác nghĩ gì về mình cũng như hiểu tầm quan trọng của việc đưa ra những quyết định nhanh chóng, một khoảnh khắc xuất thần hoặc thực sự do dự có thể thay đổi mọi thứ khi anh chạy trên sân với trái bóng dưới chân.
Nhưng dáng người và sự gan dạ trên sân bóng khiến anh luôn được yêu cầu đứng trước khung thành. Ở thời điểm ấy anh không hề muốn như thế; nó liên quan đến việc phải đứng yên, không phải hoạt động và điều quan trọng nhất nó đồng nghĩa với việc anh không thể ghi nhiều bàn thắng.
Cuối cùng anh đã phải nhượng bộ và chơi một hiệp trước khung gỗ và một hiệp với vai trò tiền đạo. Dù nó đối nghịch lại với mong ước ban đầu của anh, nhưng trở thành thủ môn của Rangers đã giúp Howard cả ở trong và đáng chú ý hơn là ngoài sân cỏ nữa. Với một tiền đạo, ghi một bàn thắng khiến anh ta trở thành người hùng; ngược lại, với một thủ môn thì một bàn thắng đồng nghĩa với việc trở thành tội đồ. Anh đã phạm sai lầm như mọi thủ môn khác và nó dạy anh cách chấp nhận việc người ta nghĩ gì về mình. Khi còn trẻ, bất chấp chứng rối loạn và sau nhiều lần khóc, giận dữ và nổi điên, Howard sau khi được mẹ mình giúp đỡ đã bắt đầu chấp nhận cảm giác được khám phá những điều chưa biết.
Khi Howard bắt đầu trưởng thành và chấp nhận hội chứng Tourette, tình yêu với bóng đá của anh dần tăng lên khi anh bước vào tuổi thiếu niên. Đội bóng đầu tiên mà anh theo dõi thường xuyên là AC Milan vĩ đại của những năm cuối thập niên 80 trên truyền hình cáp. Trong khi vẫn tiếp tục thi đấu ở tuyến trên trong nửa hiệp mỗi trận, anh đã học tập Roberto Donadoni và cố gắng bắt chước lại mọi động tác của ông sau khi đi học về. Khi Mỹ vượt qua vòng loại World Cup 1990, lần đầu tiên sau 40 năm đất nước của Howard được tham dự sân chơi bóng đá thế giới, anh đã theo dõi nó trên TV và quan sát mọi hành động của Tony Meola và Tab Ramos, những người cũng đến từ New Jersey.
Howard bắt đầu thi đấu ở một tiêu chuẩn cao hơn. Nhận thức về hội chứng của anh được nâng tầm, bây giờ anh được chẩn đoán bởi một bác sĩ thần kinh, điều đó có nghĩa là anh có nhiều điều lợi thế hơn các cầu thủ khác - anh đã đi trước một bước. Anh có thể thấy khi nào một trận đấu thay đổi và liệu một đợt phản công về phía khung thành của mình có xảy ra hay không. Khi một tiền vệ cánh chuyền bóng, anh có thể thấy cầu thủ tiền đạo có thể đón được quả tạt đó không vì tốc độ và quỹ đạo thậm chí là nhanh hơn nhiều so với đối thủ. Tư duy của Howard cùng với năng lực thể thao là công thức của thành công.
Khả năng của anh rõ ràng là có thể so với những đứa trẻ cùng tuổi, đặc biệt là với mẹ. Kết quả là năm 1991, bà tích cóp được đủ tiền để gửi anh đến một buổi tập của câu lạc bộ GK1 khi đó được dẫn dắt bởi Tim Mulqueen. Ông là huấn luyện viên thủ môn ở Rutgers, một trường đào tạo bóng đá có uy tín; người nổi tiếng nhất từng tốt nghiệp ở đây là huyền thoại MLS Alexi Lalas,cầu thủ đã có 96 lần khoác áo đội tuyển quốc gia.
Mulch - biệt danh của Mulqueen - đã làm việc cùng với Howard hết tuần này qua tuần khác và không giống như những người khác, những thủ môn khả năng kém hơn ở các buổi tập, anh không phải trả phí. Các phương pháp tập luyện nghiêm ngặt của ông nổi tiếng tại New Jersey vì nó rất khắc nghiệt và tốn sức. Khi đội tuyển của bang được tập hợp lại, Mulch được giao nhiệm vụ chọn lựa và ông đã chọn Howard cho vị trí thủ môn.
Khả năng của Howard đang dần phát triển và sau khi thể hiện những màn trình diễn đáng ngưỡng mộ ở khắp bờ Đông, anh được lựa chọn vào Chương trình Phát triển Olympic (ODP). ODP cung cấp một lộ trình cho đội tuyển trẻ quốc gia - Howard được đại diện cho đất nước mình ở lứa U15, U17 và U20. Tuy nhiên đây mới chỉ là bước khởi đầu cho quá trình tái sinh bóng đá Hoa Kỳ.
Cả thế giới đã rất kinh ngạc khi FIFA tuyên bố World Cup 1994 sẽ được tổ chức ở Mỹ. Nước Mỹ có nguồn lực và tiền bạc để tổ chức thế nhưng nó không có nghĩa đây đã là một quốc gia bóng đá. Để đổi lấy việc tổ chức sự kiện thể thao lớn nhất hành tinh, FIFA quyết định rằng Mỹ phải đưa giải bóng đá chuyên nghiệp của mình đi vào hoạt động. Điều này dẫn đến sự ra đời của rất nhiều đội bóng mới trong đó bao gồm một câu lạc bộ gần nhà Howard có tên New Jersey Imperials. Họ là một phần của United Soccer League, tiền thân của MLS, và với quỹ lương chỉ là 24 nghìn USD một năm cho những cầu thủ thậm chí là giỏi nhất đất nước, Howard có một bước đi mạo hiểm khi bỏ qua trường đại học với niềm hy vọng rằng rồi anh sẽ được thi đấu ở hạng đấu cao nhất với việc gia nhập một đội bóng địa phương ở tuổi 18.
|
Tim Howard2 |
Thực tế, Howard kiếm được gần một nửa mức lương tối đa của mình - 13 nghìn USD một năm - tức là 250 USD một tuần. Anh gây ấn tượng với Imperials và sau đó không lâu anh được nhiều đội bóng ở MLS theo đuổi. Anh lựa chọn gia nhập MetroStars, câu lạc bộ được kì vọng sẽ thống trị giải vô địch quốc gia sau khi kí hợp đồng với những tên tuổi như Meola, Donadoni và Lalas.
Howard phải ngồi dự bị cho Meola và sau khi người gác đền này bị treo giò một trận vì cãi lại trọng tài, MetroStars phải dựa vào thủ thành số hai của mình cho một trận đấu trên sân nhà tiếp đón Colorado Rapids. Anh có một màn trình diễn ấn tượng và đáng chú ý nhất là pha cứu thua từ cú dứt điểm một đối một của Wolde Harris, một trong những chân sút xuất sắc nhất MLS trong những năm đầu khi giải đấu được thành lập. Howard bắt đầu khẳng định bản thân mình là thủ môn số một của MetroStars.
Khi tiếng tăm và sự nổi tiếng của Howard đã tăng lên thì vào năm 2001 vấn đề về hội chứng của anh là một nguồn tư liệu tốt và lần đầu tiên anh đã cởi mở nói về những khó khăn mà mình phải đối diện. Câu chuyện của anh được New York Times, USA Today và Sports Illustrated đăng tải; anh xem ngôi sao bóng rổ Mahmoud Abdul-Rauf như một nguồn cảm hứng. Thế nhưng sau khi cầu thủ này rời NBA năm 1998, Howard quyết định rằng anh không còn muốn che giấu bệnh tật của mình nữa và muốn làm việc với những trẻ em bị ảnh hưởng bởi hội chứng Tourette.
Anh cần sự giúp đỡ với những trách nhiệm mới cùng những quyết định quan trọng, thế nên anh đã thuê một người đại diện. Người mà anh lựa chọn là Dan Segal, một luật sư và cũng là người đã khích lệ Howard thử vận may với bóng đá châu Âu trong khi vẫn đóng góp cho hoạt động từ thiện.
Segal giúp Howard thử việc ở Feyenoord nhưng sau khi nó không thành công, anh bắt đầu mùa giải 2003/2004 cùng MetroStars như kế hoạch. Tuy nhiên, dù thời điểm đó anh được xếp là thủ môn thứ tư của đội tuyển quốc gia sau Kasey Keller, Brad Friedel và Meola nhưng huấn luyện viên thủ môn của Manchester United là Tony Coton vẫn giới thiệu Howard với Sir Alex Ferguson sau khi theo dõi những video của cầu thủ người Mỹ. Man United gửi tới Howard lời đề nghị một triệu đô la vào cuối mùa giải. Và Howard dễ dàng đưa ra quyết định vượt đại dương để đến với nước Anh. Trận đấu ra mắt của anh là cuộc đối đầu với Arsenal ở Community Shield 2004.
Nếu như anh không hoàn toàn hiểu được trọng trách trên vai mình là người gác đền số một của Manchester United thì Thierry Henry của Arsenal đã giúp anh biết điều đó. Khi cầu thủ người Pháp kiếm được một quả đá phạt cách 32m về phía khung thành trên sân vận động Millennium, Howard đã chỉ đạo hàng thủ tổ chức một hàng rào ba người che phía bên phải khung thành. Thế nhưng, khi Howard sớm nhận ra Henry tung cú dứt điểm xoáy về phía bên phải khung thành mà anh đã chạm tay vào được, anh biết giới hạn cho những sai lầm trong bóng đá Anh là mong manh hơn rất nhiều ở MLS. Manchester United sau đó đã giành chiến thắng trên chấm luân lưu nhưng bản hợp đồng mới không khiến Sir Alex ấn tượng. Tờ Independent đã tóm tắt về Howard như một “thủ môn khuyết tật” gần như không đóng góp được nhiều cho đội bo.
Như thường lệ, Howard đáp trả lại những chỉ trích liên tiếp và sự phán xét theo một cách duy nhất mà anh biết - tiếp tục thi đấu và tận hưởng những thử thách. Rất nhiều trận đấu đã kết thúc trong nước mắt cùng Rangers và những lời chỉ trích không ngừng nghỉ từ các giáo viên, những người không hiểu những điều anh đã trải qua khiến anh mạnh mẽ và miễn nhiễm trước sự nghi ngờ.
Anh thi đấu ba mùa giải ở sân Old Trafford trước khi cống hiến 414 lần ra sân trên mọi đấu trường cho gã khổng lồ vùng Merseyside - Everton - để rồi sau đó trở lại MLS trong màu áo Colorado Rapids vào năm 2016. Anh thi đấu 115 trận cho đội tuyển quốc gia Mỹ mà đỉnh cao là màn trình diễn đầy cảm hứng trước người Bỉ tại vòng chung kết World Cup tổ chức ở Brazil. Quả là một hành trình dài với một cậu bé sáu tuổi nhút nhát đá tiền vệ trên một sân bóng nhỏ ở tiểu bang New Jersey ngày nào.
Lược dịch từ bài viết Tim Howard and the rise beyond being just a “disabled goalkeeper” của tác giả Ryan Plant trên These Football Times.
CG