“Định lý Thomas Müller” có lẽ sẽ chẳng bao giờ xuất hiện, nhưng các cầu thủ sẽ luôn tìm cách để vươn đến đỉnh cao của cuộc chơi. Chỉ là sẽ rất khó để họ có thể tái hiện lại cái vai trò mang tên Raumdeuter một cách thành công như ngôi sao người Đức.
Trong sự nghiệp lừng lẫy của Thomas Müller cho đến nay, người ta đã sử dụng rất nhiều ngôn từ khác nhau để nói về anh, nhưng chắc chắn rằng, chỉ có hai từ là lột tả được hết về khả năng của cầu thủ người Đức: Đẳng cấp thế giới.
Gắn mác Müller với những cụm từ mang tính “dìm hàng” bởi vì trông anh lúc nào cũng có vẻ rất lóng ngóng, vụng về trên sân sẽ giống như hạ thấp sự uy quyền của Tyrannosaurus Rex ở thời tiền sử vì hai cánh tay ngắn ngủn của nó vậy. Sẽ chẳng có một gã cầu thủ nào sở hữu cái bản thành tích cực kỳ “bá đạo” kiểu ghi được 117 bàn thắng và thực hiện 144 pha kiến tạo ở Bundesliga, tám lần được nâng chiếc Đĩa bạc của nước Đức, năm lần đăng quang ở Cup DFB và một lần lên ngôi tại UEFA Champions League, mà không thuộc nhóm những cái tên hàng đầu thế giới của môn thể thao vua cả.
Phần lớn những cuộc tranh luận về Müller là bắt nguồn từ vị trí thi đấu có hơi trừu tượng của anh trên sân bóng. Người hùng “nhà tự trồng được” của Bayern Munich đã tỏa sáng, đã chinh phục những đỉnh cao với một phong cách thi đấu khiến cho các nhà bình luận và các cầu thủ đối phương phải vò đầu bứt tóc nghiên cứu trong hơn một thập kỷ.
Anh chẳng phải là một tiền đạo trung tâm thuần túy, một tiền đạo lùi thuần túy, một tiền vệ tấn công thuần túy, và cũng không hề là một cầu thủ chạy cánh nốt – nhưng lại sở hữu một chút những đặc tính của cả bốn vai trò đó, và ngoài ra thì còn nhiều phẩm chất đặc biệt khác bên cạnh chúng nữa. Theo cách gọi của riêng cầu thủ người Đức, anh là một “Raumdeuter” (kẻ đánh hơi/ mở ra/ xâm nhập không gian).
“Tôi không thích việc được nhắc đến như một tiền đạo, bản thân tôi không phải như vậy đâu,” lời giải thích của Müller, người đã gia nhập Bayern khi vẫn đang là một cậu bé 10 tuổi vào mùa hè năm 2000, và có màn debut tại Bundesliga một tháng trước sinh nhật lần thứ 19.
“Tôi thích được hoạt động ở vùng không gian phía sau hàng tiền vệ đối phương. Đó là nơi mà tôi có thể gây ‘sát thương’ cho họ nhiều nhất. Tôi là sự pha trộn giữa một tiền đạo và một tiền vệ. Tôi là một Raumdeuter. Đó là bản năng của tôi.”
Khả năng đánh hơi bàn thắng – hay nói đúng hơn là “không gian” – đã giúp Müller có được 107 pha lập công ở Bundesliga từ năm 2010 đến 2019. Chỉ có người đồng đội Robert Lewandowski và đội trưởng của Borussia Dortmund, Marco Reus, là sở hữu thành tích cao hơn anh, còn ở khâu kiến tạo, ngôi sao của Bayern Munich chính là cái tên đứng đầu, với chiến tích 144 lần hỗ trợ cho đồng đội ghi bàn trong cùng thập kỷ. Hơn 1/3 trong con số đó – kể từ năm 2014 – chính là dành cho Lewandowski.
“Mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn khi Thomas chơi cạnh tôi,” Lewandowski nói về người cộng sự đắc lực của mình. “Cậu ấy đã giúp tôi rất nhiều; Chúng tôi đã bổ khuyết cho nhau rất tốt.”
“Thomas luôn hướng về khung thành đối phương, di chuyển liên tục. Chúng tôi luôn có nhiều hơn một cầu thủ bên trong vòng cấm mỗi khi cậu ấy thi đấu, tôi có thêm nhiều khoảng trống hơn và không phải lúc nào cũng bị ‘chăm sóc’ bởi hai hoặc ba cầu thủ đối phương.”
Những cơ chế trong sự hiệu quả của Müller là rất đơn giản – chuyền nhanh, ít chạm, di chuyển đúng thời điểm và lạnh lùng tung đòn đánh quyết định – còn sự tinh tế là nằm ở những chi tiết.
Tận dụng những hạn chế về mặt vị trí của các hậu vệ đối phương, số 25 của Bayern thường di chuyển sát với ranh giới việt vị, nhiều lúc đến mức song song với rìa bên ngoài của nó, rất hiếm khi lệch ra ngoài. Theo thống kê, tại Bundesliga, cứ sau 2 trận đấu thì Müller mới bị thổi phạt việt vị một lần. Cầu thủ đã có 100 lần ra sân cho đội tuyển quốc gia Đức – người sở hữu thành tích 10 pha lập công tại FIFA World Cup và từng được tận hưởng niềm vui đăng quang vào năm 2014 – được cho phép di chuyển tự do trên sân, để khai thác những điểm mạnh của anh như một kẻ săn tìm các cơ hội, thay vì bị bó buộc vào cái hệ thống chiến thuật mà anh là một phần của nó. Đó là một bước đi nhỏ đối với Müller, nhưng lại là một bước nhảy vọt khổng lồ đối với các hậu vệ tại Bundesliga.
“Mấu chốt chính là khả năng tính toán thời gian giữa người tung ra đường chuyền và người thực hiện pha di chuyển vào đúng vị trí cần đến,” Müller nói với Goal về chiếc “radar” hàng đầu thế giới trong bộ não của anh. “Trong thế giới bóng đá, có những khu vực nguy hiểm mà nếu bạn dành thời gian để nghiên cứu chúng, bạn sẽ học được cách để khiến hàng thủ đối phương lâm nguy nhất. Thường thì đó là những pha di chuyển ở khu vực giữa các tuyến (between the line), vào đúng thời điểm.”
“Đó luôn là một trong những thế mạnh lớn nhất của tôi: Sự linh hoạt vị trí khi trong trạng thái không bóng ở vùng không gian giữa các tuyến và xâm nhập sâu vào khu vực 1/3 cuối sân đối phương. Thật sự chẳng có gì bí ẩn về nó cả.”
Bí ẩn – Có lẽ là không ; khả năng phán đoán vô song – đó là điều không thể nghi ngờ. Trạng thái phong độ nguy hiểm nhất của Müller là khi anh chơi quay lưng lại với khung thành đối phương, hoặc ở một vị trí bên cánh. Cầu thủ người Đức sở hữu một khả năng xuất sắc đến kỳ lạ trong việc đánh giá cục diện của lối chơi và định hình giai đoạn tiếp theo của nó bằng cách liên tục thực hiện các pha di chuyển để mở ra những khoảng trống giữa các cầu thủ phòng ngự đối phương, và cung cấp thêm một sự lựa chọn chuyền bóng khác.
Trong suốt sự nghiệp, Müller đã chơi phía trước rất nhiều những bậc thầy kiến thiết của môn thể thao vua, nhưng chính bản thân anh cũng sở hữu khả năng phát hiện ra các lỗ hổng/ cơ hội mà thậm chí ngay cả những cầu thủ như Thiago Alcantara cũng có thể không nhận thấy – hoặc ít nhất là đóng vai trò người đầu tiên triển khai tận dụng chúng. Ra hiệu kín đáo bằng tay, kết hợp với một pha di chuyển đầy tính toán và khó nắm bắt là tất cả những gì cần thiết để thực sự tạo nên một tình huống tấn công nguy hiểm từ một cơ hội tiềm năng.
“Chung quy lại thì chìa khóa chính là sự linh hoạt vị trí, tốc độ suy nghĩ và sự tự tin vào khả năng của chính bản thân bạn,” Müller tiếp tục. “Tôi sẽ không nói mình là một cầu thủ ‘lạ thường’. Thứ duy nhất ‘lạ thường’ là tổng thể khả năng của tôi, nếu bạn nhìn vào các kỹ năng cá nhân mà tôi sở hữu.”
“Tôi có kỹ thuật tốt, nhưng tôi không phải là một chuyên gia rê dắt bóng. Có những tiền đạo dứt điểm tốt hơn, hoặc nhanh hơn tôi. Điều lạ thường ở đây là, bất chấp những điểm yếu đó, tôi vẫn nằm trong hàng ngũ những cái tên hàng đầu, vì những khía cạnh khác trong lối chơi của tôi đều được thể hiện rất tốt.”
“Đó là điều mà không một ai có thể hiểu được. Thay vì suy ngẫm về việc tôi là kiểu cầu thủ gì, thì họ lại tự hỏi làm thế quái nào mà gã cầu thủ này lại có được chỗ đứng vững chắc trong một đội bóng Bundesliga lừng danh như vậy, chứ chẳng phải lăn lộn ở những ‘đội bóng Bundesliga tầm thường’, hoặc làm thế nào mà hắn ta có thể giành được ngôi vị vua phá lưới tại World Cup và rất nhiều những thắc mắc kiểu vậy – chứ không phải là tiến hành phân tích ‘tại sao?’.”
Một lý do lớn cho việc tài năng của Müller đã không được công nhận rộng rãi chính là vì chẳng tồn tại một thước đo nào có thể định lượng được toàn bộ sự đóng góp của anh.
Dù cho cầu thủ 30 tuổi đã kiến tạo và ghi bàn với một hiệu suất đều đặn đến ấn tượng, nhưng sự tinh tế đích thực là nằm ở những gì mà anh làm trong trạng thái không bóng, những khoảnh khắc trước khi thực hiện một đường chuyền hoặc một cú sút, đó là điều đã tạo nên sự khác biệt của anh trên sân. Và dù cho loài người đã thu thập được rất nhiều bằng chứng về việc từ tận thời Babylon cổ đại đã xuất hiện những khái niệm về chu vi và chu vi hình tròn, thì chúng ta vẫn chẳng có cách nào để đo lường được khoảng trống đã được tạo ra như thế nào và chất lượng của nó.
“Định lý Thomas Müller” có lẽ sẽ chẳng bao giờ xuất hiện, nhưng các cầu thủ sẽ luôn tìm cách để vươn đến đỉnh cao của cuộc chơi. Chỉ là sẽ rất khó để họ có thể tái hiện lại cái vai trò mang tên Raumdeuter một cách thành công như ngôi sao người Đức.
Có thể trong một vũ trụ song song nào đó, “kẻ cắp không gian” kiệt xuất của Bayern Munich sẽ có được sự công nhận mà anh xứng đáng.
Nguồn : Lược dịch từ bài viết “Thomas Müller: the most under-appreciated player in world football” của tác giả Chris Mayer-Lodge, đăng tải trên Bundesliga.com.