Fernando Hierro: Người thủ lĩnh hoàn hảo trong sắc áo Hoàng gia

Tác giả CG - Thứ Năm 23/03/2017 20:08(GMT+7)

Zalo
1. Nhờ vào nỗ lực to lớn và những cơ bắp tràn đầy năng lượng của Cristiano Ronaldo, Real Madrid đã giành được chức vô địch Champions League (European Cup) thứ 11 vào ngày hè năm 2016.
Fernando Hierro1
Fernando Hierro
Trong những năm qua, Santiago Bernabéu - nơi cất chứa rất nhiều những danh hiệu – nơi ghi dấu trong những trang sử đẹp nhất. Raúl và Puskás. Gheorghe Hagi và Jonathan Woodgate. Bên ngoài sân cỏ, từ  Franco đến Di Stéfano, Real là một câu lạc bộ không bao giờ mất đi vị thế hàng đầu của mình. Họ thiết lập những kỉ lục chuyển nhượng thế giới như Gareth Bale, Kaká và Luís Figo; những đề cử quả bóng vàng cho Marcelo và Pepe; những triết lý Galácticos hay Zidanes y Pavónes. Nói cách khác, Real Madrid chưa bao giờ chịu lẩn khuất trong bóng tối.
 
Tuy nhiên không nhiều người nhắc đến Fernando Hierro dù trong gần 15 năm, anh là trái tim của Real Madrid. Anh là “bàn tay sắt” giơ lên đầy thách thức trên sân Camp Nou năm 1998 sau khi xe buýt của đội phải hứng chịu loạt đá của cổ động viên đối thủ. Anh là thủ lĩnh phòng thay đồ nhờ vị thế, phẩm cách và sự điềm tĩnh; là một trung vệ vĩ đại có một năm rưỡi là chân sút số một cho đội tuyển quốc gia.
 
Và một ngày khi anh trở lại Castile, có lẽ không thể tránh khỏi những nghi ngờ. Thực tế anh đã hai lần rời khỏi Real dưới thời Florentino Pérez, lần đầu là năm 2003 khi vẫn đang là đội trưởng của câu lạc bộ và lần thứ hai là một thập kỉ sau đó khi đang đảm nhận vai trò trợ lý cho Carlo Ancelotti. Với năng lực và ảnh hưởng trong vai trò huấn luyện viên trưởng tại Real Oviedo thì cùng với cá tính mạnh mẽ của mình, chắc chắn anh sẽ là ứng cử viên hàng đầu để ngồi vào chiếc ghế ở đội bóng Hoàng gia nếu một ngày ngài chủ tịch không còn tin tưởng Zinedine Zidane nữa.
Fernando Hierro3
Fernando Hierro khi là HLV
2. Fernando Ruiz Hierro sinh vào tháng 3/1968 tại Vélez-Málaga trong một gia đình có truyền thống bóng đá. Thế nhưng trong khi hai người anh trai Antonio và Manolo sớm gia nhập câu lạc bộ lớn của địa phương là Deportivo Málaga thì may mắn chưa tới với Fernando.
 
Trong hầu hết những năm tháng bản lề hình thành sự nghiệp của mình, anh chủ yếu thi đấu cho đội trẻ ở địa phương, một đội bóng nghiệp dư hầu như chỉ đá ở Tercera División (Giải hạng tư trong hệ thống giải vô địch Tây Ban Nha) và giải đấu địa phương trong suốt 94 năm lịch sử của mình. Málaga nhanh chóng để mắt và đưa anh về năm 1983 tuy nhiên họ không thể nhìn thấy tiềm năng của cậu bé Fernando. Rất nhanh, họ trả anh về đội bóng cũ Vélez.
 
Và mọi thứ vẫn tiếp tục kéo dài thêm vài năm nữa. Cha anh chơi bóng, hai người anh trai cũng vậy và trên tất cả anh vẫn tận hưởng niềm vui cùng môn thể thao vua. “Khi đó, chúng tôi không có bất kì khả năng nào khác ngoài đá bóng và đá bóng. Với tôi, đó là cách tốt nhất để cống hiến cho làng của mình. Một điều khá lạ lùng. Đó là những kí ức mà tôi sẽ không bao giờ quên.”
 
Chính vì thế, cậu bé yêu mến và thần tượng Diego Maradona vẫn quyết tâm giữ niềm đam mê của mình ngay cả khi đội bóng Málaga nói rằng anh sẽ chẳng làm nên được điều gì lớn lao. Và có lẽ, anh sẽ chẳng thể nào tiến xa nếu không có sự xen vào của người anh trai.
 
Sau sáu năm ở đội một của Málaga, Manolo Hierro rời bỏ câu lạc khi đó đã xuống hạng để đến Real Valladolid và trở lại La Liga. Trong mùa giải đầu tiên cùng đội bóng mới, anh và các đồng đội chỉ có thể tránh được loạt trận tranh play-off để ở lại giải đấu số một Tây Ban Nha nhờ vào thành tích đối đầu trước Athletic Bilbao. Nhưng Manolo đã đóng góp vào một trong những thành tích phòng ngự xuất sắc nhất giải và giới thiệu người em trai của mình đang đến nơi đây để tìm kiếm cơ hội thi đấu.
 
Đó là một bước đi mà Fernando khi đó đã 19 tuổi rất cần. Sau khi được “tốt nghiệp” từ Valladolid Promesas - cái tên thi vị hơn so với Real Valladolid B - anh được đôn lên đội một khoảng một tháng sau đó.
Fernando Hierro4
Fernando Hierro ở Valladolid
Ngày 4/10/1987, anh có trận đấu ra mắt La Liga trong vai trò tiền vệ trước Espanyol; đến tháng Ba, chỉ vài ngày sau sinh nhật tuổi 20, anh ghi bàn thắng đầu tiên của mình. Ảnh hưởng của anh lên đội bóng là không thể phủ nhận và đến cuối mùa giải, Barcelona đã nhấc điện thoại lên để liên hệ. Thế nhưng đáng tiếc, người Catalan đã kí hợp đồng với một Hierro khác là người anh trai Manolo và sau đó không bao giờ sử dụng. Thậm chí trước khi mùa giải sau bắt đầu, Manolo đã được đem cho mượn tới Real Betis để rồi từ đó chuyển tới Tenerife và giải nghệ ở đây.
 
Trong khi đó, Fernando thi đấu ngày càng tiến bộ nhưng đồng thời phải nhận đến ba tấm thẻ đỏ trong mùa giải 1989/1990 khiến cầu thủ trẻ nhất trong đội hình Valladolid khi ấy không thể chơi trọn vẹn cả mùa, đội bóng của anh kết thúc ở vị trí thứ 6 và được tham dự UEFA Cup Winners’ Cup. Mặc dù Valladolid đã thất bại trước Real Madrid trong trận chung kết Copa del Rey nhưng màn trình diễn của Hierro trong trận đấu ấy và xa hơn là suốt mùa giải đã gây được chú ý tới đội bóng thủ đô Tây Ban Nha.
 
Thế nhưng, chỉ trong vài giờ ngày 2/6/1989, Hierro - người bị đuổi trong trận đấu với Athletic Bilbao hai tuần trước - đã đến sân Vicente Calderón cùng các đồng đội ở Valladolid chỉ để được thông báo rằng anh sẽ bị bán cho đối thủ của mình. Jesús Gil, chủ tịch của Atlético Madrid, đã đồng ý một thỏa thuận cho anh ở lại Valladolid trong một mùa giải dưới dạng cho mượn. Thậm chí Hierro đã chụp hình với áo thi đấu của đội, thế nhưng anh đã không bao giờ gia nhập đội bóng đó.
 
Những thông tin Real Madrid cũng quan tâm đến anh đã khiến cầu thủ người Tây Ban Nha suy nghĩ lại. Bên cạnh đó Gil thậm chí miêu tả anh là “một cậu bé chưa trưởng thành.” Và đó là điểm khởi đầu cho sự nghiệp huy hoàng của Hierro trong màu áo Real Madrid. Nếu như ở Valladolid, anh thường xuyên được sử dụng một cách linh hoạt trong vai trò tiền vệ và hậu vệ thì tại Real, huấn luyện viên John Toshack đã cố định anh ở hàng phòng ngự bên cạnh một bản hợp đồng mới khác, cầu thủ người Argentina Oscar Ruggeri, Bernd Schuster và Manolo Sanchís lần lượt án ngữ ở trước và sau bộ đôi trung vệ.
 
Mùa giải đầu tiên cho câu lạc bộ đã khởi đầu không mấy thuyết phục - ít nhất là với các cổ động viên Real Madrid. Một vài trận hòa không bàn thắng và thất bại 1-3 trước Barcelona, một trận thua mà đáng lẽ ra đã có thể đậm hơn; họ bị loại khỏi European Cup sau hai lượt trận trước AC Milan và rồi thua Real Sociedad 1-2.
 
Mặc dù vậy, đến cuối mùa giải ít nhất họ đã đạt được những thành tích khó có ai sánh bằng. Đội bóng vô địch với 107 bàn thắng, một kỉ lục tồn tại trong 20 năm, trong đó Hierro đóng góp bảy pha lập công và qua đó góp phần giúp anh có màn ra mắt trong màu áo đội tuyển Tây Ban Nha. Trận giao hữu với Ba Lan khép lại với chiến thắng 1-0 nghiêng về La Roja.
 
Số lượng bàn thắng đáng chú ý đó như là dấu hiệu và điểm khởi đầu cho những pha lập công cứ thế đến liên tục sau này. Anh thừa nhận: “Tôi không có tư duy của một hậu vệ. Tất cả những gì tôi có được với tư cách một hậu vệ đều là hệ quả của việc mắc sai lầm nhiều lầm. Tôi mắc nhiều sai lầm và học hỏi từ chúng.”
Fernando Hierro6
Fernando Hierro ăn mừng khi ghi bàn
Tuy nhiên, với sự nghiệp câu lạc bộ ở giải quốc nội, anh thường xuyên được bố trí ở hàng hậu vệ. Một loạt các huấn luyện viên đều kết luận rằng nếu để anh đá ở hàng tiền vệ thực sự anh không thể hiện được quá nhiều điều đáng chú ý.
 
Trong khi đó ở cấp độ đội tuyển quốc gia, dường như đó lại không phải là vấn đề được quan tâm. Và sau khi thông nòng trong chiến thắng 9-0 trước Albania tháng 12/1990, những bàn thắng cứ tiếp tục đến với Hierro. Ba bàn trong ba trận đầu năm 1992, một pha lập công ấn định chiến thắng quan trọng trước Đan Mạch tại vòng loại World Cup tháng 11/1993, sáu pha lập công trong sáu trận suốt hai năm 1998 và 1999. Thời điểm anh từ giã đội tuyển quốc gia sau World Cup 2002, anh đã có 29 bàn thắng trong 89 lần ra sân và vượt qua Emilio Butragueño để dẫn đầu danh sách ghi bàn cho đội tuyển Tây Ban Nha.
 
Ở Real, anh đã sớm được phát huy sở trường ghi bàn của mình. Quả thực là như vậy, dưới thời Toshack và trước đó là Leo Beenhakker, cả đội ghi khá nhiều bàn thắng. Tuy nhiên đến đầu thập niên 90, những bàn thắng bắt đầu trở nên “khô hạn” và đội bóng bắt đầu lạc lối. Hugo Sánchez - vua phá lưới của Real trong năm chức vô địch liên tiếp (trong đó ông bốn lần giành được Pichichi) - thời điểm ấy đã 32 tuổi và qua thời kì đỉnh cao. Tiền đạo người Mexico thi đấu mờ nhạt trước khi phải ra đi, Real Madrid bước vào giai đoạn sa sút trong bốn năm khi không có danh hiệu nào ngoài một Copa del Rey duy nhất.
Fernando Hierro5
Fernando Hierro - hình ảnh mà người hâm mộ sẽ luôn nhớ mãi
 Thế nhưng, trong hơn ba mùa giải từ năm 1991 đến 1994, đây lại là giai đoạn tương đối thành công với cá nhân Hierro. Anh ghi tổng cộng 55 bàn thắng trên mọi đấu trường; bốn lần sút tung lưới Espanyol trong vòng 17 phút vào tháng 4/1992 và 26 pha lập công mùa giải 1991/1992 dưới thời Radomir Antic và sau đó là Beenhakker dường như là cơ sở để anh tiếp tục chinh phục những bàn thắng.
 
Thực tế, trong những năm đầu thập niên 90 này, Hierro có lẽ đã trở thành một cầu thủ tương đối hoàn hảo. Kiên cường trong phòng ngự, mạnh mẽ ở khu trung tuyến và sự bén nhạy với những bàn thắng - nếu có một lời ngợi khen nào hay hơn để miêu tả về một người giống như Eric Dier ở thời điểm hiện tại thì anh cũng xứng đáng nhận được lời khen đó. Anh đánh đầu ghi bàn, đá phạt trực tiếp, sút phạt đền. Anh đảo chân, anh có mặt ở gần vòng cấm trước khi mọi người xuất hiện ở đây. Anh là một hậu vệ nhưng như nhà báo Santiago Segurola của tờ El País thì đó là một hậu vệ “mang linh hồn của một tiền đạo.”
 
Nhưng trên tất cả, tên tuổi của anh cũng được định nghĩa bằng chiến thắng. “Đội bóng của tôi phải chiến thắng và tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để đạt được mục đích này,” anh từng phát biểu như vậy. “Đó là con người tôi, tốt hơn hoặc tệ hơn. Có lẽ đó là lí do tôi đạt được nhiều thứ như tôi đã có. Tôi thích chiến thắng và tôi không hề có ý muốn che giấu nó.”
Fernando Hierro8
Fernando Hierro vs Rivaldo
3. Nếu như bây giờ Real đã có 11 chiếc cúp European Cup và Champions League trong phòng truyền thống của Bernabéu, thì có một điều đặc biệt là danh hiệu ấy là thứ đã ám ảnh họ trong rất nhiều năm. Chính xác là 32 năm.
 
Danh hiệu trước đó, danh hiệu thứ sáu, là thứ đã từng chấm dứt cơn khô hạn của Real Madrid. Trong vòng năm năm sau khi giải đấu được hình thành vào năm 1956, mỗi năm Real Madrid vô địch một lần. Sau đó bước vào thập niên 60, đội bóng với nguồn cảm hứng mang tên Puskás đột nhiên ngừng việc vô địch liên tục như trước đây. 
 
Và năm năm sau, một tập thể của những Paco Gento, Pirri, Manuel Velázquez và Manuel Sanchís Martínez (cha của Manolo Sanchís) đã đánh bại Partizan Belgrade đến từ Nam Tư sau rất nhiều chờ đợi. Nhưng kể từ đó, họ bước vào chuỗi ngày mòn mỏi đợi chờ danh hiệu vô địch cao quý nhất châu Âu. Và nếu mùa hè 1966 dường như là điểm kết thúc cho một khoảng thời gian dài đằng đẵng mòn mỏi trước đó của người hâm mộ bóng đá Anh thì năm 1998 với các cổ động viên Real Madrid như là khởi đầu cho một thứ cảm xúc vĩnh cửu. 
 
Đội bóng đã trải qua một vài thăng trầm trong một vài mùa giải. Họ được tham dự Champions League 1997-1998 sau một năm thi đấu ấn tượng ở giải vô địch quốc gia. Nhưng một năm trước đó, đội bóng thậm chí còn không được tham dự cúp châu Âu sau khi kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 6 (đứng sau cả Tenerife). Và trong khi phải chiến đấu để vượt qua Bayer Leverkusen và Borussia Dortmund (chủ yếu nhờ Fernando Morientes và Christian Karembeu), họ lại bị hụt hơi ở La Liga. 
 
Còn Juventus có lẽ là đội bóng số một châu Âu thời điểm đó. Đây đã là trận chung kết Champions League thứ ba liên tiếp - trước đó là một chiến thắng và một thất bại - và họ có Zinedine Zidane. Real thì chưa lọt vào một trận chung kết nào kể từ năm 1981.
 
“Bà đầm già” đã thể hiện ưu thế vượt trội của mình. Zidane tung cú dứt điểm rất nhanh sau pha đá phạt bị chặn lại của Alessandro Del Piero và trong hiệp hai Moreno Torricelli, Mark Iuliano hay Pippo Inzaghi đã có những cơ hội rất tốt để đưa đội bóng Italia vươn lên dẫn trước. Thế nhưng khi trận đấu chỉ còn 25 phút, sau nỗ lực dứt điểm nhưng bị chặn đứng của Roberto Carlos, bóng lăn đến vị trí của Predrag Mijatović và anh đã không bỏ lỡ cơ hội.
 
Cuối cùng thì Juve đã không thể ghi được bàn thắng nào mà đóng góp một phần không nhỏ trong đó là công lao của Hierro, người đã có màn trình diễn đỉnh cao khi “bắt chết” Del Piero trong suốt trận đấu. “Dei Piero ở đâu?”, người hâm mộ Real đã hát như vậy về tiền đạo ngôi sao của đối thủ. “Hierro đã ăn mất anh ta rồi!”
Fernando Hierro2
Fernando Hierro - thủ lĩnh một thời
Anh miêu tả chiến thắng đó như là một sự “tỉnh giấc” và nó khởi đầu cho một kỉ nguyên châu Âu mới của Real. Trong vòng bốn năm, La Séptima (Chức vô địch thứ bảy) được nối tiếp bằng La Octava (Chức vô địch thứ tám) với chiến thắng 3-0 trước Valencia. Thắng lợi 2-1 trước Bayer Leverkusen năm 2002 - thời điểm mà Hierro là đội trưởng sau khi Sanchís giải nghệ và đội bóng đã có Zidane - cho họ La Novena (Chức vô địch thứ chín).
 
Lúc này, Hierro đã trở thành một con người đầy quyền lực trong phòng thay đồ mà theo như Steve McManaman thì là “không có chuyện gì diễn ra mà không có tiếng nói của anh ấy”. Tầm ảnh hưởng của anh là vô cùng lớn, không có một ai được xếp trên Hierro.
 
Florentino Pérez trở thành chủ tịch Real Madrid năm 2000 chủ yếu nhờ vào lời hứa đưa Luís Figo đến sân Bernabéu từ Barcelona và chính sách “Zidanes y Pavónes” (Chính sách mang về một ngôi sao lớn và đôn một cầu thủ từ đội trẻ lên mỗi năm) của ông - mà sau đó ngày càng ít chú trọng vào những cầu thủ từ lò đào tạo trẻ như Pavón. Tuy nhiên, ông đã có một vài tranh cãi với tân đội trưởng của mình và trong một cuộc phỏng vấn với tờ Independent của Ireland năm 2005, Hierro đã chia sẻ về những năm tháng cuối cùng của mình ở Tây Ban Nha với một sự tiếc nuối: “Chúng tôi có những cầu thủ giỏi, những cầu thủ rất giỏi và những cầu thủ xuất sắc. Thời điểm đó tôi nói rằng việc sử dụng từ ‘galatico’ ở Madrid là có hại nhiều hơn có lợi nếu xét về lâu về dài. Bóng đá là một cái gì đó tự nhiên, thực tế hơn. Dùng những từ như thế là không thích hợp.”
 
Đến năm 2003, vấn đề này đã đạt đến tầm của một cuộc khủng hoảng. Cây viết Sid Lowe miêu tả lại trong cuốn Fear and Loathing in La Liga, “Từ những người với cá tính khác nhau đến chủ tịch, trong suy nghĩ của Pérez thì Hierro và huấn luyện viên Vicente del Bosque đại diện cho những sự thách thức, một trở ngại với tầm nhìn của ông. Pérez đã buộc Fernando Redondo phải ra đi và cố gắng bán Morientes, điều này khiến Hierro quở trách ông vì cách đối xử với các cầu thủ như một ‘món hàng’”.
 
Và đó là mùa giải cuối cùng của anh ở đây khi anh được cho là đã cảm thấy mệt mỏi với sự thương mại hóa đang đang ngày càng gia tăng từ những gì mà vị chủ tịch đã mang đến Bernabéu. Hierro từ chối dẫn đầu các cầu thủ đi vòng quanh sân ăn mừng trong ngày họ giành chức vô địch La Liga.
 
Và anh ra đi không kèn không trống.
 
Mùa hè 2003, Fernando Hierro rời Real sau 14 năm thi đấu ở đây với năm chức vô địch quốc gia và ba European Cup. Tổng cộng, anh có 497 lần ra sân ở La Liga, ghi 105 bàn thắng và đứng thứ năm trong danh sách những người ra sân nhiều nhất cho câu lạc bộ suốt mọi thời đại.
Fernando Hierro7
Fernando Hierro - Figo - Makelele
Anh chuyển tới Qatar, kí hợp đồng với Al Rayyan. Trùng hợp thay là đối thủ cũ của anh trong những trận El Clásico - Pep Guardiola - gia nhập Al-Ahli. Sau một năm thi đấu tại Trung Đông, anh trở về châu Âu và cập bến Bolton, tại đây anh thi đấu bên cạnh người đồng đội cũ Iván Campo và được huấn luyện viên Sam Allardyce miêu tả là “chân chuyền xuất sắc nhất lịch sử câu lạc bộ”. Allardyce, người hâm mộ Bolton và gần như toàn bộ đội bóng đã xin anh ở lại thêm một mùa giải nữa. Nhưng họ không thành công, anh tuyên bố giải nghệ tháng 5/2005.
 
4. Sau khi giải nghệ, anh đã đảm nhiệm khá nhiều vai trò. Đầu tiên là bốn năm làm việc ở Liên đoàn bóng đá Tây Ban Nha trên cương vị giám đốc thể thao. Trong suốt quãng thời gian này, anh đã được hưởng lợi từ di sản huấn luyện đầu những năm 90 và sự nổi lên của những cầu thủ như Xavi và Iker Casillas, anh cũng là người đã bổ nhiêm một cựu huấn luyện viên của Real Madrid dẫn dắt một đội bóng gần như toàn bộ là các cầu thủ Barcelona đi đến đỉnh vinh quang.
 
Sau đó là một năm làm việc ở Málaga - tiền thân là Club Deportivo. Vẫn trên cương vị giám đốc bóng đá, anh cùng đội bóng đã được tham dự Champions League lần đầu tiên trong lịch sử. Sau đó là một năm làm trợ lý cho huấn luyện viên Carlo Ancelotti ở Real Madrid.
 
Trong khoảng thời gian đó, anh cũng đảm nhận chức danh cố vấn cho Liên đoàn bóng đá Israel, xuất hiện bên cạnh những Faustino Asprilla, Cafu, Pablo Aimar và chủ tịch FIFA Gianni Infantino trong một trận đấu giao hữu với đội bóng các cựu cầu thủ Bolivia được dẫn dắt bởi tổng thống của họ, ngài Evo Morales. Và trong một bài viết cách đây chưa lâu, có một câu hỏi được đặt ra: Chúng ta có quên mất điều gì đó không? Một người dường như có rất nhiều vai trò với kinh nghiệm trong thi đấu, huấn luyện và chính trị, liệu anh có thể khẳng định mình bên ngoài sân cỏ như anh đã từng làm khi còn thi đấu không?
 
Hiện tại chúng ta - và đặc biệt là Real Oviedo - có lẽ đã có thể tìm ra câu trả lời. “Tôi thấy trận đấu mở ra trước mắt từ vị trí của tôi ở hàng phòng ngự,” anh từng nói, “và nhiều lần tôi tự nói với bản thân mình rằng ‘Thật xấu hổ vì không thể chạy lên và tung một cú dứt điểm’.”
 
Cuối cùng thì, anh đã tung một cú dứt điểm rồi!
 
Lược dịch và hiệu đính từ bài viết In praise of Fernando Hierro, Real Madrid’s complete leader của tác giả Harry Reardon trên These Football Times 

CG (TTVN)

Cùng tác giả

Cùng chuyên mục

Luis Diaz và một đêm huyền ảo của Liverpool tại thánh địa Anfield

Trận đấu khép lại, Luis Diaz rời sân Anfield với danh hiệu "Cầu thủ xuất sắc nhất trận" và ôm quả bóng Champions League sau khi đã lập một cú hattrick vào lưới Bayer Leverkusen. Và vẫn như thường lệ, trên quả bóng ấy lại có đầy đủ chữ ký của đồng đội để giúp Diaz lưu giữ lại chút kỷ niệm về một đêm huyền ảo của mình tại Anfield.

X
top-arrow