Đó là một đêm mưa tầm tã tại San Siro, khi mà những milanista trên khắp các góc khán đài vẫn còn chưa hết phấn khích thì ở dưới sân, gã hậu vệ hào hoa Alessandro Nesta đã lạnh lùng thực hiện một đường chuyền dài sắc lẹm đưa bóng tìm đến đúng vị trí của Seedorf. Rất nhanh chóng, tiền vệ người Hà Lan đánh đầu trả ngược bóng ra cho Kaka để rồi tình huống bắt volley kinh điển của “Thiên thần” sau đó đã khiến người hâm mộ AC Milan được vỡ òa trong niềm hạnh phúc bất tận…
|
Clarence Seedorf - Khúc cao trào trong bản nhạc Champions League |
Cho đến tận bây giờ, những ký ức ngọt ngào về trận bán kết Champions League năm 2007 vẫn luôn mang lại cho người Milan một cảm giác phấn hứng đến lạ kỳ. Trong cái đêm San Siro huyền diệu ngày hôm ấy, Clarence Seedorf chính là người hùng bên phía Rossoneri với một bàn thắng cùng một pha kiến tạo, góp công lớn đưa thầy trò HLV Carlo Ancelotti lọt vào đến trận chung kết, nơi Milan sau đó đã đòi lại món nợ với Liverpool bằng chiến thắng sát nút 2-1. Đó cũng chính là danh hiệu Champions League thứ tư trong sự nghiệp của Seedorf, một kẻ dường như được sinh ra để viết nên những đoạn nhạc cao trào ở sân khấu trời Âu.
TỪ CHỐI REAL MADRID VÌ… BẬN HỌC
Chào đời tại Paramaribo, Suriname nhưng gia đình Seedorf đã chuyển tới sinh sống ở thành phố Almere, thuộc tỉnh Flevoland (Hà Lan) khi cậu bé mới chỉ 2 tuổi. Trải qua thời gian, những trận đấu vỉa hè chính là yếu tố ngày ngày nuôi dưỡng niềm đam mê chơi bóng của Seedorf. Trưởng thành từ học viện trẻ của Ajax Amsterdam, chàng trai sinh năm 1976 đã nhận được bản hợp đồng thi đấu chuyên nghiệp đầu tiên khi anh mới bước sang tuổi 16, qua đó giữ kỷ lục là cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử từng chơi cho đội bóng thủ đô Hà Lan.
Khoảng thời gian sau này, chính Seedorf và cả bố mẹ anh cũng tiết lộ rằng họ từng từ chối lời đề nghị của Real Madrid khi anh 15 tuổi. Thật kỳ lạ khi mà một Clarance Seedorf luôn coi trọng việc học hành hơn cả bóng đá lại trở thành một trong những tiền vệ xuất chúng nhất thế giới sau này. “Tôi cho rằng giáo dục mới là thứ cần được ưu tiên trước bóng đá. Đây chính là lý do khiến tôi quyết định từ chối Real Madrid. Tôi luôn tự tâm niệm rằng, chỉ cần mình chơi tốt trong màu áo Ajax, sớm hay muộn thì lời đề nghị ấy cũng quay trở lại”.
Dưới thời HLV Louis van Gaal, Seedorf chính là nhân tố tiêu biểu đại diện cho thế hệ cầu thủ trẻ tài năng của Ajax nói riêng cũng như nền bóng đá Hà Lan nói chung, như anh em nhà De Boer (Ronald và Frank), Patrick Kluivert, Edgar Davids hay Marc Overmars. Mùa giải 1994/95, Ajax Amsterdam đã đánh bại AC Milan sát nút 1-0 trong trận chung kết Champions League, một danh hiệu ngọt ngào đối với cá nhân Seedorf. Sau giai đoạn vinh quang ấy, ngôi sao người Hà Lan cũng quyết định rời xa quê hương để chuyển đến khoác áo Sampdoria, nơi anh tiếp tục hoàn thiện bản thân trong môi trường văn hóa Calcio.
|
Những ngày Ronaldo và Seedorf tranh tài trên đất Hà Lan |
Xuất thân là một tiền vệ chạy cánh phải, Seedorf vốn nổi bật với khả năng rê dắt bóng khéo léo, nguồn thể lực dồi dào cũng như khả năng dứt điểm tuyệt vời. Tuy nhiên, do cách thức chơi bóng tại Hà Lan và Serie A là hoàn toàn khác nhau nên cầu thủ gốc Suriname cũng phải tự tìm cách thích nghi với cuộc sống mới. Dù chỉ đầu quân cho Sampdoria của HLV Sven Goran Eriksson trong vòng một mùa giải, thế nhưng Seedorf đã học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm.
“Chính nhờ sự chỉ dạy tận tình của HLV Eriksson mà tôi hiểu ra rằng mình cần phải thích nghi với một nền văn hóa mới ngay khi đang thi đấu trên sân cỏ. Tại Ajax, tôi thường được dạy cách cắt đường chuyền thay vì phải chạy theo đối phương, như thế sẽ tiết kiệm sức lực hơn đồng thời rèn luyện cả kỹ năng phán đoán. Thế nhưng, nếu chơi như vậy ở Italia thì bạn sẽ bị chỉ trích là lười biếng và không chịu tuân thủ chiến thuật. Do đó, tôi cũng phải chấp nhận di chuyển nhiều hơn mặc dù vẫn giữ phong cách chơi cũ, điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp của tôi về sau này”.
Mùa hè năm 1996, cuối cùng thì Seedorf cũng gia nhập Real Madrid. Tại sân Bernabeu, ngôi sao người Hà Lan nhanh chóng khẳng định được vai trò trụ cột ở hàng tiền vệ Los Blancos. Có điều kiện được thi đấu bên cạnh những đồng đội xuất chúng như Redondo, Raul, Morientes, Karembeu, Hierro, Mijatovic hay Carlos… Seedorf dễ dàng phát triển năng lực đồng thời trở nên toàn diện hơn bao giờ hết. Từ một chân chạy cánh thuần túy, cựu tiền vệ Ajax ngày càng thể hiện được nhãn quan chiến thuật nhạy bén, tự hoàn thiện các kỹ năng phân phối bóng cũng như phòng ngự. Mùa giải 1996/97, thời điểm Seedorf lần đầu tiên khoác áo Real, đội bóng chủ sân Bernabeu đã giành được chức vô địch La Liga. Chỉ đúng một năm sau đó, Los Blancos tiếp tục đoạt được danh hiệu Champions League sau 32 năm ròng rã chờ đợi. Mặc dù vậy, đây cũng chính là ánh hào quang cuối cùng của Seedorf trên mảnh đất Tây Ban Nha.
Bước sang mùa giải 1998/99, sau khi HLV Guus Hiddink lên nắm quyền thay thế Jupp Heynckes, tiền vệ người Hà Lan đã không còn được trọng dụng. Tháng Mười Hai năm 1999, ban lãnh đạo Real Madrid đành quyết định bán Seedorf cho Inter Milan với mức giá 24,35 triệu đô. Quay trở lại nước Ý, từng có thời điểm mà người ta nghĩ rằng Seedorf đã trở thành một “kẻ chết rồi”. Tại Inter, anh không những không thể hiện được bản thân mà còn trở nên sa sút hơn bao giờ hết. Có lẽ, ấn tượng duy nhất mà Seedord từng để lại trong màu áo đội bóng chủ sân Meazza chỉ là hai cú sút xa vào lưới Juventus vào tháng Ba năm 2002, giúp Inter cầm hòa Bianconeri 2-2 chung cuộc.
HUYỀN THOẠI BẤT TỬ CỦA MILAN
Cuộc sống này vẫn luôn tồn tại những khoảnh khắc định mệnh và cuộc chuyển nhượng Clarence Seedorf từ Inter sang Milan vào mùa Hè năm 2002 chính là một khoảnh khắc như thế. Từ một nhân vật tưởng chừng như đã mất tích trong màu áo Nerazzurri, ngôi sao người Hà Lan bất ngờ hồi sinh một cách thần kỳ tại San Siro. Mùa bóng 2002/03, Seedorf trở thành hạt nhân quan trọng giúp Rossoneri đoạt được cú đúp danh hiệu Coppa Italia và Champions League. Bên cạnh đó, tiền vệ sinh năm 1976 cũng đi vào lịch sử với tư cách là cầu thủ đầu tiên đoạt 3 chức vô địch Champions League trong màu áo 3 CLB khác nhau.
|
Bộ tứ vệ một thời của Milan |
Dưới triều đại Ancelotti, đội bóng chủ sân San Siro đã trở thành một biểu tượng của Serie A ở đấu trường châu lục. Trong sơ đồ cây thông trứ danh 4-3-2-1 mà nhà cầm quân người Italia từng xây dựng, cá nhân Seedorf luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Sở hữu lối chơi toàn diện, có thể đáp ứng hầu hết mọi vị trí trên hàng tiền vệ, ngôi sao người Hà Lan thường được sử dụng như một con thoi hoặc một trong hai vị trí “số 10” bên cạnh Rui Costa/Kaka. Khoảng thời gian sau này, Seedorf tiếp tục cùng với Pirlo và Gattuso hợp thành bộ ba tiền vệ lừng danh trong màu áo Milan.
Thật khó có thể miêu tả chính xác Seedorf thực sự chơi tốt nhất ở vị trí nào bởi trên thực tế, anh quá hoàn hảo. Từng là một tiền vệ cánh phải khi mới bắt đầu sự nghiệp nhưng càng về sau này, cầu thủ người Hà Lan càng có xu hướng thi đấu bó vào trung lộ nhiều hơn. Mặc dù vậy, phong cách chơi bóng của Seedorf, ngay cả trong giai đoạn đã bước qua “tuổi băm” vẫn có chút gì đấy mang hơi hướng giàu tốc độ và thể lực. Đây cũng chính là lý do giải thích vì sao mà ngôi sao sinh năm 1976 có thể thích nghi với mọi vai trò ở tuyến giữa, từ một chuyên gia chạy cánh, một con thoi di chuyển không ngừng nghỉ, một hộ công sáng tạo cho đến một tiền vệ phòng ngự làm nhiệm vụ thu hồi bóng.
Mùa giải 2006/07, trải qua biến cố scandal Calciopoli kinh hoàng, một Milan già cỗi cứ thế lặng lẽ và âm thầm tiến bước đến trận chung kết Champions League. Đương nhiên, cái tên Seedorf cũng chính là một trong những nguồn cảm hứng vô cùng quan trọng của Rossoneri, bên cạnh Kaka, Pirlo, Inzaghi hay Nesta. Ở vòng tứ kết Champions League năm ấy, thầy trò Carletto đã bị Bayern Munich cầm hòa 2-2 ngay trên sân nhà. Không nhiều người dám tin rằng đội hình toàn những “bô lão” của Milan sẽ lội ngược dòng thành công trước người Đức, nhưng rồi màn trình diễn chói sáng của Seedorf đã nhanh chóng xóa nhòa tất cả. Một tình huống lắc người đầy tinh tế loại bỏ đối phương trước khi dứt điểm cháy lưới Oliver Kahn, một pha giật gót hoàn hảo tạo điều kiện cho Inzaghi ấn định chiến thắng 2-0 chung cuộc, ngôi sao người Hà Lan đã trở thành kẻ cứu rỗi đưa Milan lọt vào bán kết, nơi Rossoneri tiếp tục một mình chống lại 3 đội bóng đến từ Premier League.
|
Những công thần của Rossoneri năm 2007 |
Để rồi, sau khi M.U và Liverpool gục ngã, người ta lại thêm một lần nữa được chứng kiến Seedorf nâng cao chiếc cúp bạc Champions League quen thuộc, danh hiệu vô địch châu Âu thứ tư trong sự nghiệp đầy rẫy những vinh quang của anh. Còn nhớ, thời điểm khi trận bán kết lượt về giữa Milan và M.U kết thúc với tỷ số chung cuộc 3-0 nghiêng về phía thầy trò Ancelotti, Seedorf đã bật khóc và nói rằng: “Đây chính là trận đấu hay nhất trong đời tôi”, một khoảnh khắc mà chắc chắn các milanista sẽ còn nhớ mãi mỗi khi nhắc về đêm mưa San Siro huyền diệu. Cũng trong năm 2007, cá nhân Seedorf đã vinh dự được UEFA bầu chọn là tiền vệ xuất sắc nhất châu Âu.
TRÁI TIM NHÂN ÁI GIỮA CUỘC ĐỜI
Xuyên suốt trong sự nghiệp, Clarence Seedorf chưa bao giờ nghĩ rằng nhiệm vụ của mình chỉ là đá bóng. Xuất thân từ mảnh đất Suriname nghèo khó, cầu thủ người Hà Lan luôn “canh cánh” trong lòng một nỗi niềm khao khát thực hiện các hoạt động nhân đạo dành cho trẻ em. Bản thân Seedorf cũng tin rằng đó mới chính là sứ mệnh của cuộc đời anh: “Từ khi còn nhỏ cho đến lúc thành đạt, tôi đều phải chứng kiến những cảnh đời ngang trái xung quanh mình. Bất cứ nơi nào trên thế giới cũng luôn tồn tại những số phận bất hạnh. Giờ đây, tôi chỉ muốn trao cơ hội cho những đứa trẻ thiệt thòi bởi chúng chính là tương lai của thế giới này”.
Thế rồi, dự án Champions For Children đã được thành lập đúng như nguyện vọng của cựu danh thủ người Hà Lan. Cùng với các cộng sự của mình, Seedorf đã tiến hành tổ chức hàng loạt sân chơi bóng đá dành cho trẻ em nghèo ở khắp nơi, từ Suriname, Hà Lan cho đến Italia. Tại Paramaribo (Suriname), nơi Seedorf từng sinh thành, anh đã lập ra một khu phức hợp thể thao mang tên “Clarence Seedorf Stadium” để cố gắng vun vén giấc mơ cho những cậu bé nghèo vẫn hàng ngày phải lang thang trên đường phố.
|
Seedorf tất bật với những dự án từ thiện sau khi treo giày |
Cho đến bây giờ, cuộc sống của Seedorf sau khi rời xa ánh hào quang sân cỏ vẫn vô cùng bận rộn chứ không hề tẻ nhạt và vô vị giống như nhiều ngôi sao đương thời khác. Người ta sẽ nhìn thấy anh ở một khu ổ chuột, đôi khi lại nhìn thấy anh trong một trận đấu từ thiện hoặc cũng có thể là một lớp học chuyên môn nào đấy. Bởi vì Clarence Seedorf chính là như thế, một kẻ từng viết nên những khúc cao trào trong bản nhạc Champions League bất hủ và cũng chưa bao giờ nguội đi niềm khao khát được sống hết mình cho những giá trị tươi đẹp nhất của thế giới con người.
OLE (TTVN)