Trong khoảng 20 năm vàng son, Zona Mista đã giúp gây dựng lại niềm tự hào bóng đá cho người Italy, giúp mang về những danh hiệu lớn nhất ở cấp CLB lẫn đội tuyển.
Những ngày thanh bình, đó là những gì mà người ta cảm nhận về bóng đá Italy trong thập niên 60. Trong 10 trận chung kết C1 ở thập niên đó thì có 4 trận mà đội chiến thắng là CLB đến từ Italy. Catenaccio thống trị thế giới với bậc danh sư mang tên Nereo Rocco. Khi AC Milan của Il Parón (biệt danh của Rocco) đánh bại Ajax vào năm 1969, có cảm giác như một triều đại chiến thuật mới đã được ra đời. Nhưng hoá ra không phải vậy. Trong 15 năm tiếp theo, không đội bóng Italy nào vô địch C1 cả. Thế giới chuyển động và calcio bị bỏ lại phía sau.
Sau thất bại ở Thế chiến Thứ Hai, đất nước Italy bước vào quá trình tái thiết. Tư tưởng phát xít của Benito Mussolini bị loại bỏ. Gần 100 năm sau khi thống nhất, đất nước Italy lại thu mình lại. Phong cách bóng đá Catenaccio gần như thể hiện rõ đặc tính đó của đất nước. Nó là một lối chơi thực dụng, không thích mạo hiểm – quá phù hợp với một đất nước hoàn toàn mất đi sự tự tin và hiếu chiến. Hơn nữa, Catenacio có một người ủng hộ tạo ra tầm ảnh hưởng to lớn là Gianni Brera.
Gianni Brera không chỉ là một nhà báo bóng đá. Với tư cách là biên tập viên của tờ Gazzetta dello Sport khi mới 30 tuổi, ông đã đưa danh tiếng của báo chí Italy vươn xa. Trong suốt cuộc đời mình, Brera luôn cho rằng Catenaccio chính là một cách chơi bóng lý tưởng. Ông tin người Italy thiếu sức mạnh và thể lực cần thiết để cạnh tranh với đối thủ. Không thể chiến thắng dựa vào tài năng đơn thuần, họ cần chơi bóng thông minh và một hệ thống phù hợp để gặt hái thành công, mà ở đây chính là phòng ngự. Khi AC Milan của Rocco và Inter của Helenio Herrera đoạt các danh hiệu lớn, nó giống như một lời khẳng định đanh thép cho cách đá của người Italy.
Tuy nhiên, sự nổi lên của Bóng đá Tổng lực (Totaalvoetbal) đã khiến Catenaccio gặp một đối trọng thực sự. Khi Ajax và Hà Lan trình diễn lối chơi cuốn hút, chiếm trọn cả trái tim lẫn lý trí của người hâm mộ, có những con người ở calcio đã bị lung lay. Corrado Viciani là người đầu tiên cố gắng sao chép nó ở Italy và khiến nhiều người thích thú trước một lối chơi dựa vào kỹ thuật thay vì chỉ sử dụng những pha bóng dài và các tình huống phòng ngự lỗ mãng. HLV trưởng của Ternana đã dẫn dắt đội bóng của mình thăng hạng, tuy nhiên ông thường bị chỉ trích kịch liệt, nhất là khi ông tuyên bố cổ vũ Ajax thay vì Inter trong trận chung kết C1 năm 1972. Ở Italy khi đó dường như chưa sẵn sàng gạt bỏ căn tính bóng đá của họ.
Zona Mista (Khu vực hỗn hợp) nổi lên như một sự thoả hiệp, kết hợp giữa những đặc tính phòng ngự của Catenaccio với sự lôi cuốn, nhịp nhàng của bóng đá Hà Lan. Trong những hệ thống của Brera và Rocco, vị trí libero là trung tâm, mấu chốt quyết định cho thành công của chiến thuật. Tuy nhiên, không giống như Catenaccio, với Zona Mista vị trí này còn chịu trách nhiệm lớn hơn và được tự do hơn khi đội của họ cầm bóng.
Hoạt động phía sau hai trung vệ dập – những hậu vệ có nhiệm vụ kèm người – libero được giao nhiệm vụ chỉ đạo lối chơi từ tuyến dưới đồng thời loại bỏ bất cứ cầu thủ tấn công nào thoát khỏi áp lực phòng ngự phía trên. Phòng ngự khu vực – thứ mà Nils Liedholm đã tiên phong áp dụng ở AC Milan – được phát lộ ở một giải đấu đã quá quen với một lối phòng ngự khác. Zona Mista đã phát triển từ đó, libero cùng các tiền vệ phía trước mặt anh ta bao quát các khu vực thay vì để mắt đến những cá nhân.
Trong khi đó, hậu vệ phải thì kết hợp với trung vệ đá gần mình – thường là một hậu vệ mang tính truyền thống – để hỗ trợ phòng ngự. Bên cánh đối diện, hậu vệ trái lại có vai trò dâng lên hỗ trợ tấn công. Ở giữa sân, một direttore (tiền vệ sáng tạo) có nhiệm vụ chuyền bóng cho tiền đạo lùi và tiền đạo trung tâm. Tiền vệ phòng ngự sẽ đảm trách việc phòng ngự với sự hỗ trợ từ một tiền vệ trung tâm đá bên cạnh. Do hậu vệ phải sẽ chủ yếu phòng ngự ở dưới, tiền vệ phải được tự do bao quát cả cánh, sẵn sàng tạt bóng hoặc bó vào trong hỗ trợ tiền đạo.
HLV Luigi Radice. Ảnh: Gazzetta dello Sport
Mỗi cầu thủ đều được yêu cầu phải cực hiểu và nắm được rõ hệ thống của họ. Nếu một đồng đội bỏ vị trí trên sân, người khác phải ngay lập tức khoả lấp vị trí ấy để đảm bảo tính liền mạch và cơ động trong đội hình. Với một đất nước đã quá quen với Catenaccio, Zona Mista giống như một sự tiến hoá và thậm chí là sự mạo phạm với truyền thống. Có một người nổi bật hơn cả trong việc giúp nó hợp thức hoá thành một công thức chiến thắng.
Năm 1976, Luigi Radice là HLV trưởng Torino. Ông là sự kết hợp hoàn hảo giữa chất mạnh mẽ và mềm mại, giữa chất thép và sự uyển chuyển. Ông luôn yêu cầu các học trò phải biết kết hợp giữa gây áp lực và tấn công để đánh bại những hàng phòng ngự khác ở Italy.
Dưới sự dẫn dắt của Radice, Torino trải qua chuỗi 13 trận bất bại trước khi đoạt chức vô địch trong vòng cuối cùng của mùa giải và khiến kình địch cùng thành phố là Juventus về thứ hai. Lối chơi của Torino là kết hợp giữa sự linh hoạt của Bóng đá Tổng lực và kèm người cực rát – một phong cách mà theo chính lời Luigi Radice là “làm cho bạn sướng”. Ví dụ, tiền đạo ngôi sao Francesco Graziani luôn được ca ngợi vì tần suất hoạt động không biết mệt mỏi trên sân cũng như khả năng dứt điểm cháy lưới đối thủ.
Tuy nhiên danh hiệu đầu tiên của Torino sau thảm hoạ hàng không Superga lại đánh dấu cho một sự đi xuống. Giovanni Trapattoni và Juventus sẽ tái lập sự thống trị của họ trong những năm sau đó nhưng với một hệ thống chiến thuật sẽ nhanh chóng trở nên thịnh hành ở Italy. Trapattoni đến Juventus vào năm 1976 và được thừa hưởng một đội hình chất lượng với Gaetano Scirea, Claudio Gentile và Dino Zoff ở hàng phòng ngự, Franco Causio và Antonio Cabrini thì kiến tạo cơ hội cho Roberto Boninsegna và Roberto Bettega trên hàng công.
Il Trap đã đoạt Scudetto và UEFA Cup trong mùa giải trọn vẹn đầu tiên dẫn dắt Juventus, trong đó Scirea là libero. Gaetano Scirea – người bắt đầu sự nghiệp với vai trò tiền vệ tấn công ở Atalanta – đã được đặt vào một vị trí mà sau này ông trở thành một trong những đại diện vĩ đại nhất. Khi Juventus kiểm soát bóng, ông dâng lên hỗ trợ tiền vệ, xử lý tình huống bằng kỹ thuật cá nhân uyển chuyển và nhãn quan xuất sắc.
Trong khi đó, Antonio Cabrini là mối đe doạ thường trực ở vị trí wing-back trái. Vào thời điểm chia tay Juventus năm 1989, ông đã ghi 33 bàn thắng cho đội bóng. Chỉ con số đó đã cho thấy khả năng tấn công của Cabrini nhưng đồng thời cũng là minh chứng cho thấy sự hiệu quả ở một hệ thống mà ông đã dành nhiều thời gian thi đấu nhất trong sự nghiệp. Cabrini luôn thoải mái khi băng lên phần sân đối thủ, chủ yếu vì ông tự tin các đồng đội phía sau đã khoả lấp những khoảng trống ở để lại. Trong khi đó, Zona Mista đã mang đến cho Juventus những con người xuất chúng như Liam Brady và Michel Platini.
Đội hình Italy tại World Cup 1982
Tuy nhiên, thành công vang dội nhất của Zona Mista chính là chức vô địch World Cup 1982 của ĐT Italy. HLV Enzo Bearzot dẫn dắt Azzurri từ năm 1975 sau thời gian làm trợ ý cho Fulcio Valgiareggi. Ba năm sau, tại World Cup 1978, ông gây bất ngờ với giới điệu mộ khi xếp Cabrini và cầu thủ trẻ Paolo Rossi trong đội hình xuất phát. Khát khao hiện đại hoá bóng đá Italy của Bearzot đã có kết quả khi Azzurri kết thúc vòng bảng với vị trí dẫn đầu, trên đội chủ nhà Argentina và đội tuyển Pháp tài năng. Dù Italy thua Hà Lan ở vòng tiếp theo nhưng Cabrini được bầu là Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất giải đấu và thầy trò Bearzot chinh phục tất cả bằng lối chơi tấn công hấp dẫn.
Tuy nhiên, 4 năm sau Bearzot trở thành tâm điểm chỉ trích của dư luận khi Italy chỉ vượt qua vòng bảng World Cup 1982 nhờ hơn hiệu số bàn thắng bại với thành tích hoà cả 3 trận. Bearzot và hệ thống Zona Mista mà ông góp phần phổ biến đang bị lung lay dữ dội.
Sau khởi đầu chậm chạp, Italy dần vào guồng khi đánh bại Argentina ở trận đấu tiếp theo. Một đội hình với nòng cốt là các cầu thủ Juventus đã đánh bại Diego Maradona và các đồng đội với tỷ số 2-1. El Diego hoàn toàn bất lực khi bị Gentile và Fulvio Collovati kiềm toả, trong khi Scirea đạo diễn trận đấu một cách xuất sắc từ tuyến sau. Sau đó, Italy tiếp tục đánh bại Brazil trong một trận đấu vẫn được mô tả là vĩ đại nhất lịch sử bóng đá. Hai đội liên tục rượt đuổi tỷ số, và cuối cùng Azzurri đi tiếp với thắng lợi 3-2 nhờ cú hattrick của Rossi. Italy đã đánh bại đội bóng có hàng tiền vệ được xem là vĩ đại nhát lịch sử. Ở trung lộ, Gabriele Oriali và Marco Tardelli không cho những Falcao hay Toninho Cerezo của Brazil khoảng trống nào.
Sau khi đánh bại Ba Lan ở bán kết, Italy bước vào chung kết, chạm trán Tây Đức. Cầu thủ được xem là mối đe doạ lớn nhất bên phía Tây Đức chính là tiền đạo cánh trái Pierre Littbarski, tuy nhiên, Bearzot đã tìm ra giải pháp bằng cách tung Giuseppe Bergomi vào sân. Đội trưởng tương lai của Inter để mắt tới Littbarski suốt cả trận, từ đó cho phép Cabrini thoải mái dâng lên phần sân đối phương.
Những bàn thắng của Rossi, Tardelli và Alessandro Altobelli đã giúp Italy giành chiến thắng. Zona Mista – sản phẩm kết hợp giữa Catenaccio và Bóng đá Tổng lực – trở thành kim chỉ nam. Italy – đất nước bị chia rẽ về tư tưởng bóng đá – nay đã tìm được sự thống nhất.
Sau khi kéo bóng đá Italy ra khỏi những ngày ảm đạm, Zona Mista cũng không tránh khỏi tình trạng thoái trào. Giữa thập niên 80, gần như mọi đội bóng ở Serie A đều sử dụng nó. Theo nhà báo Ludovico Maradei, việc mọi đội bóng đều có chung một hệ thống chính là hồi chuông báo tử. Ông chia sẻ với người đồng nghiệp Jonathan Wilson vào năm 2012: “Nó được phản ánh rõ nét qua số áo của các cầu thủ. Mọi thứ trở nên rất dễ đoán”.
Italy đoạt chức vô địch World Cup 1982. Ảnh: Gazzetta dello Sport
Dần dần, các CLB quay trở lại với Catenaccio. Luigi Radice không thể thái hiện thành công ở Torino, trong khi Bearzot chứng kiến di sản của ông trở thành thảm hoạ ở World Cup 1986. Trong khi đó, Trapattoni – một người có triết lý thực dụng – thì gặt hái thành công với 9 danh hiệu trong 10 mùa giải ở Juventus trước khi tiếp tục mát tay ở Inter và Bayern Munich – không ngần ngại gạt bỏ Zona Mista khỏi triết lý của mình.
“Tôi tin tưởng vào sự đơn giản của các khu vực. Để phòng ngự tốt, mỗi cầu thủ phải làm tốt phần nhiệm vụ của họ. Đó là lý do vì sao chia sân bóng thành các khu vực là rất quan trọng. Chúng ta đã làm điều đó trong bóng đá suốt 100 năm và hiệu quả, vậy tại sao bây giờ phải dừng lại? Tại sao phải dừng lại khi vẫn đang chiến thắng”, Trapattoni chia sẻ.
Zona Mista không phổ biến bên ngoài Italy. Tuy nhiên, trong khoảng 20 năm vàng son, nó đã giúp gây dựng lại niềm tự hào bóng đá cho người Italy, giúp mang về những danh hiệu lớn nhất ở cấp CLB lẫn đội tuyển. Có thể nó không được trọng vọng và nhắc đến nhiều như Catenaccio nhưng lại thể hiện một cách tư duy hiện đại và cấp tiến ở thời điểm ấy.
Tổng hợp từ These Football Times, Inverting the Pyramid
Hàng công của Liverpool trong hiệp một không gặp vấn đề nghiêm trọng đến mức HLV Arne Slot phải thực hiện những thay đổi ngay lập tức trong giờ nghỉ giữa hiệp. Tuy nhiên, Arne Slot vẫn muốn thực hiện một số điều chỉnh nhỏ nhằm cải thiện độ hiệu quả trong mặt trận tấn công hơn nữa, bất chấp đội bóng của ông trong 45 phút đầu tiên cũng tạo ra rất nhiều cơ hội và chơi khá ổn.
Nhìn chung sau trận đấu với Ipswich, những pha chuyển đổi lối chơi qua hai bên cánh có khả năng sẽ trở thành yếu tố then chốt trong lối chơi Amorim xây dựng tại Man United.
Cho đến bây giờ, đó vẫn là một vấn đề mà Arne Slot đã cố hết sức để xử lý. Cho đến kỳ FIFA Days gần đây nhất, vị HLV trưởng của Liverpool đã nhiều lần nhắc tới lịch trình thi đấu đầu mùa giải khi tự đánh giá về sự khởi đầu của đoàn quân mà ông dẫn dắt.
Trong trận đấu vào hôm thứ Bảy, Pep Guardiola đã yêu cầu Kyle Walker phải đảm nhiệm quá nhiều nhiệm vụ và có thể nói ông đã trở thành nạn nhân trong sự thận trọng của chính mình.