Lịch để bàn 2025 - ấn phẩm ĐẶC BIỆT dành riêng cho fan bóng đá. Mang cả thế giới bóng đá đến với bàn làm việc của bạn! Nhanh tay đặt mua ngay hôm nay: https://forms.gle/ed5b32S9hPR9vWvK7 |
10. Óscar Pérez Rojas (1m72)
Óscar Pérez Rojas |
Thủ môn kỳ cựu với biệt danh “El Conejo”, nghĩa là “con thỏ” trong tiếng Tây Ban Nha, đã có 57 lần khoác áo Mexico trong giai đoạn 1997-2010, đặc biệt với vai trò số một trong khung gỗ ĐTQG cho đến năm 2002.
Rojas gắn bó cả sự nghiệp với Cruz Azul nhưng rong ruổi những năm tháng cuối cùng theo dạng cho mượn ở các CLB nhỏ bé hơn. Treo giày ở tuổi 46 vào mùa hè 2019, ông đang giữ kỷ lục là cầu thủ già nhất từng thi đấu ở giải VĐQG Mexico.
Trong màu áo Mexico, Rojas đã tham dự cả hai kỳ World Cup 2002 và 2010, cũng như lên ngôi vô địch Confed Cup 1999 và Cúp Vàng CONCACAF vào các năm 1998, 2003, 2009. Ở cấp độ CLB, ông giúp Cruz Azul và Pachuca lần lượt đăng quang giải VĐQG vào các năm 1997 và 2016, cũng như 1 cúp quốc gia và 3 danh hiệu cấp châu lục khác trong sự nghiệp.
9. František Plánička (1m72)
František Plánička |
Planicka nổi tiếng với khả năng phản xạ cản phá đáng kinh ngạc với phong cách nhào lộn trong khung gỗ, ông được đặt cho biệt danh “Con mèo xứ Praha”. Ông là một trong những danh thủ vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá Tiệp Khắc.
Planicka dành trọn sự nghiệp với Slavia Praha và giúp CLB thủ đô 8 lần lên ngôi vô địch giải VĐQG Tiệp Khắc. Ông đeo băng thủ quân của ĐTQG Tiệp Khắc trong hai kỳ World Cup 1934 và 1938, góp công lớn vào ngôi á quân thế giới năm 1934.
Planicka cũng được tôn vinh ở tinh thần thượng võ của mình khi chưa từng bị phat thẻ xuyên suốt sự nghiệp cầu thủ bóng đá của mình. Ông thậm chí được nhận giải thưởng Fair-play Quốc tế do UNESCO trao tặng vào năm 1985.
Năm 1999, Planicka được IFFHS bầu chọn là thủ môn xuất sắc và vĩ đại nhất lịch sử bóng đá Séc cũng như thứ 9 thế giới trong thế kỷ XX.
8. Juan Olivares (1m72)
Juan Olivares |
Olivares là người Chile và dành phần lớn thời gian sự nghiệp đỉnh cao của mình để chơi bóng cho các CLB quốc nội như Santiago Wanderers, Magallanes, Cobreloa và Union Espanola.
Mặc dù không có được chiều cao lý tưởng để đứng trong khung gỗ, Olivares vẫn có 33 trận bắt chính cho ĐTQG Chile giai đoạn 1965-1974. Ông cũng là một thành viên tham dự hai kỳ World Cup 1966 ở Anh và 1974 ở Đức.
7. Giuseppe Cavanna (1m71)
Giuseppe Cavanna |
Cavanna là một thủ môn người Ý trong khoảng thời gian thập niên 1920–1930 ở thế kỷ trước, khoác áo hai đội bóng quốc nội Pro Vercelli và Napoli. Ông cũng được triệu tập lên ĐTQG với vai trò dự bị và cùng Azzurri lên ngôi vô địch World Cup 1934 trên quê hương.
Không cao nhưng người khác vẫn phải ngước nhìn, Cavanna chơi 151 trận đấu ở Serie A và đặc biệt ở mùa giải 1934/35, ông đạt tỷ lệ bàn thua trung bình mỗi trận thấp nhất lịch sử Napoli (0,722), một kỷ lục đứng vững trong vòng 36 năm tiếp theo cho đến khi huyền thoại Dino Zoff phá vỡ ở mùa giải 1970/71.
6. Teddy Davison (1m70)
Teddy Davison |
Davison bù đắp cho chiều cao khiêm tốn của mình bằng khả năng phản xạ và dự đoán, đọc tình huống trận đấu tài tình của mình. Ông đi vào kỷ lục bóng đá với tư cách một trong những thủ môn nhỏ bé nhất từng khoác áo ĐTQG Anh.
Ở cấp độ CLB, Davison gắn bó cả sự nghiệp với duy nhất Sheffield Wednesday trong vòng 18 năm (1908-1926), với tổng cộng 424 trận ra sân bắt chính trên mọi đấu trường.Ông thậm chí còn nổi tiếng như một chuyên gia bắt phạt đền khi đã cản phá 24/77 quả penalty từng đối mặt, đạt tỷ lệ thành công ấn tượng 31,17%.
5. Steve Death (1m70)
Steve Death |
Thủ môn có cái tên "chết chóc" này luôn là sự lựa chọn số một trong khung gỗ Reading, thậm chí có thời điểm là người gác đền thấp nhất toàn bộ hệ thống các giải đấu bóng đá Anh nhưng ông vẫn có thể duy trì vị trí chính thức trong suốt 10 năm với tổng cộng 537 trận đấu.
Không có được chiều cao lý tưởng, nhưng Death được bù lại với tài năng cũng như tinh thần cống hiến chuyên nghiệp giúp ông trở thành một thần tượng trong lòng các CĐV Reading, thậm chí thường xuyên được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải mặc dù chỉ là một thủ môn.
Death chính là chủ nhân của kỷ lục 1074 phút liên tiếp giữ sạch lưới trong các trận đấu bóng đá Anh, trước khi chỉ bị xô đổ bởi người gác đền kỳ cựu Edwin van der Sar của Manchester United ở mùa giải 2008/09 (1311 phút).
4. Ted Burgin (1m70)
Ted Burgin |
Burgin từng có thời được đánh giá là một trong những thủ môn xuất sắc nhất nước Anh. Ông chơi cho nhiều CLB như Leeds United, Sheffield United, Doncaster Rovers và Rochdale.
Ông khắc phục chiều cao hạn chế của mình bằng sự nhanh nhẹn khó tin trong khung gỗ, giúp ông có thể tìm được chỗ đứng vững chắc ở Sheffield trong suốt 8 mùa giải, bao gồm tổng cộng 314 trận đấu bắt chính trên mọi sân chơi.
Burgin gia nhập Rochadale năm 1960 và gắn bó trong vòng 6 mùa giải, thi đấu 207 trận và trong đó có chung kết Cúp Liên đoàn Anh năm 1962. Ông cũng từng được triệu tập lên đội tuyển Anh tham dự World Cup 1954 tổ chức tại Thụy Sĩ
3. Juan Botasso (1m69)
Juan Botasso |
Bottaso là người Argentina và có 19 năm thi đấu bóng đá chuyên nghiệp chỉ chơi cho hai CLB Argentino de Quilmes và Racing Club de Avellaneda (1927-1946). Ông được gọi vào đội tuyển Argentina và thậm chí bắt chính trong trận chung kết World Cup đầu tiên năm 1930, đoạt ngôi á quân thế giới sau thất bại 2-4 trước đội chủ nhà Uruguay.
2. Francesco Quintini (1m68)
Francesco Quintini |
Quintini là người Italia và được biết đến nhiều nhất qua thời gian 4 mùa giải khoác áo AS Roma, mặc dù ông chỉ ra sân vỏn vẹn trong 9 trận đấu ở Serie A. Ở mùa giải ra mắt 1971/72, ông là thủ môn thấp nhất Serie A với chiều cao 1m68 của mình.
1. Jorge Campos (1m68)
Là thủ môn thấp nhất nhưng có lẽ cũng nổi tiếng nhất trong bản danh sách này, thậm chí với tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử bóng đá thế giới, Jorge Campos được xem như một trong những người gác đền xuất sắc hàng đầu thế hệ của mình.
Jorge Campos |
Cựu danh thủ người Mexico được nhớ đến nhiều nhất bởi những bộ trang phục thi đấu sặc sỡ và rộng thùng thình, phong cách bay lượn trong khung gỗ cũng như việc thường xuyên lao ra khu vực ngoài vòng cấm địa để hỗ trợ hàng phòng ngự, xu hướng được Manuel Neuer tiên phong phát triển thành hẳn một vị trí như libero sau này.
Không có được chiều cao lý tưởng, nhưng Jorge Campos này đã được bù lại bởi rất nhiều điểm mạnh như khả năng phản xạ, bật nhảy và cả tốc độ. Ngoài ra, người gác đền sinh năm 1966 còn được biết đến là một cầu thủ vô cùng đa năng khi có thể thi đấu kiêm cả vị trí tiền đạo, với 35 bàn thắng trong sự nghiệp ghi cho hai CLB Pumas UNAM và Los Angeles Galaxy.
Jorge Campos |
Sự nghiệp quần đùi áo số của Jorge Campos kéo dài 16 năm (1988-2004), kinh qua 7 CLB nhưng chủ yếu vẫn gắn bó nhất với đội bóng từ thuở thiếu thời Pumas UNAM, thậm chí đã có hai lần tái hợp vào các năm 1998 và 2002. Ông giành hai chức VĐQG Mexico với Pumas UNAM và Cruz Azul, cũng như cúp MLS với CLB Mỹ Chicago Fire.
Ở cấp độ ĐTQG, Campos có 130 trận đấu khoác áo cho Mexico và xếp thứ 6 trong danh sách những cầu thủ ra sân nhiều nhất lịch sử El Tri. Ông lên ngôi vô địch FIFA Confederations Cup năm 1999 cũng như thêm hai danh hiệu Cúp Vàng CONCACAF 1993 và 1996. Thủ môn màu mè này cũng bắt chính ở hai kỳ World Cup 1994 và 1998.
Ngoại hạng Anh sở hữu rất nhiều những thủ môn chất lượng và có giá trị chuyển nhượng lớn, cùng điểm qua danh sách 5 thủ môn đắt giá nhất Ngoại hạng Anh.
Dưới đây là danh sách những thủ môn đắt giá nhất trong lịch sử chuyển nhượng La Liga (giải VĐQG Tây Ban Nha).
Gia Khoa (TTVN)